Đọc :BÌNH MINH
" Đường thi Thích Tín Thuận"
Tác giả: Châu Thạch
Thích Tín Thuận là
sư trù trì chùa Chính Phước thuộc xã Hải Thọ huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.
Thầy còn là một thi sĩ hay sáng tác Đường thi. Thơ của thầy sâu nhiệm giáo lý
nhà Phật, đậm đà đạo nghĩa, tình người và bản sắc dân tộc, đem đến sự dạy dỗ
cho phật tử và nhiều sự lảnh hội điều thiện cho người ngoại đạo. Đọc thơ thầy
người con Phật và người không phải con Phật đều cảm thấy tâm hồn thanh thản, an
vui, bình tịnh và cảm thấy có một tình yêu bao dung, tinh khiết dậy lên trong lòng. Xin đơn cử một bài thơ
như thế:
Bình Minh
Rạng rỡ bình minh
thắm cảnh trần
Hương ngào ngạt toả
đón mừng xuân
Hồn dâng đất mẹ
niềm ưu vắng
Phúc trải làng quê
cõi tịnh gần
Lặng lẽ mưa tình
mang đến hỷ
Êm đềm nắng nghĩa
gởi về hân
Trời xanh lộc biếc
thầm giao cảm
Hãy trả lời đi chớ
ngại ngần…!
Thích Tín Thuận
Đọc vế khai đề của
Đường thi ta biết ngay tác giả muốn giới thiệu một buổi sáng mùa xuân:
Rạng rỡ bình minh
thắm cảnh trần
Hương ngào ngạt
toả đón mừng xuân
Nhiều nhà thơ tả
cảnh bình minh thường nói đến ánh sáng chan hoà trên vạn vật. Bình minh với họ
chỉ là một hiện tượng vũ trụ tác động vô hồn trên quả đất đem đến vô vàn hiện
tượng tươi đẹp.
Nhà thơ Thích Tín
Thuận cũng viết như thế với các chữ “Rạng rỡ bình minh” nhưng khác hơn, thầy
còn viết thêm “thắm cảnh trần”. Cảnh trần theo thuyết nhà Phật là sinh lão bệnh
tử, hỉ nộ ái ố. Nói chung cảnh trần là cảnh đau khổ. Vậy ở đây “Rạng rỡ bình
minh thắm cảnh trần” nghĩa là bình minh không những làm cho phong cảnh đẹp mà
còn là nguồn sáng xoa diệu đau khổ của trần gian. Bình minh ở đây không còn chỉ
là ánh sáng mặt trời mà còn là thứ ánh sáng cứu độ làm trần gian trở nên thắm
tươi, không còn đau khổ. Chỉ với hai chữ “cảnh trần” Thích Tín Thuận thần hoá
ánh sáng buổi bình minh, gởi vào đó hình ảnh của chân lý, của đạo pháp làm thắm
tươi cõi thế gian mờ tối.
Câu thơ thứ hai
“Hương ngào ngạt toả đón mừng xuân”. Đọc câu thơ nầy ta thấy ngay “Hương ngào
ngạt toả” là hương thơm của buổi bình minh. “Hương ngào ngạt’ ấy đón mừng xuân,
có ý nghĩa là bình minh đã toả mùi thơm ngào ngạt để đón mùa xuân đến với mình.
Như thế bình minh là một chủ thể và mùa xuân là một chủ thể riêng biệt. Hai chủ
thể nầy đón nhau như đôi bạn tri âm tương hợp. Câu thơ có tác dụng truyền vào
tâm hồn người đọc một cảm nhận thân tình và thắm thiết. Dầu hiểu hay không hiểu
ý thơ cao xa, vẫn lan toả tự nhiên trong tâm hồn ta niềm vui của bình minh đón chào mùa xuân tươi thắm.
Qua vế thơ thứ hai
tác giả mở rộng tầm nhìn, cho bình minh trải ra trên “miền” và “cõi”:
Hồn dâng đất mẹ
miền ưu vắng
Phúc trải làng quê
cõi tịnh gần
“Ưu” là tốt,
“vắng” là “vắng vẻ”, miền ưu vắng là miền tốt và bình tịnh. “Hồn” ở đây không
phải là hồn của tác giả mà hồn của buổi bình minh. Bình minh được thánh hoá có
hồn, và hồn đó hiến dâng cho miền đất mẹ sự an vui và bình tịnh. Thật ra nhà
thơ đã mượn bình minh để gởi chính linh hồn mình vào đó. Một ngày mới theo Phật
thuyết là quay lại một chu kỳ đau khổ trên trần gian. Chỉ có linh hồn của bậc
tu hành mới trở nên “miền ưu vắng”được.
Tác giả muốn đem “
miền ưu vắng” hay sự giải thoát trong mình hiến dâng cho đất mẹ hay đúng ra đem
đạo pháp thanh lọc cõi ta bà trở nên an tịnh. Qua câu thơ thứ tư “Phúc trải
làng quê cõi tịnh gần” khẳng định thêm ước muốn của nhà thơ ở câu thơ trên. Nhà
thơ muốn đem cái “ưu vắng” trong lòng trải khắp làng quê, làm cho phước hạnh
gần thêm với cuộc sống.
Hai câu trạng vỗ
về tâm hồn người đọc, làm tâm trí thăng hoa vào một miền, một cõi an vui, xa
rời những buổi bình minh mà con người phải nhập cuộc đấu tranh giành sự sống.
Bước qua vế luận nhà thơ tả một bình minh rất
đẹp, một bình minh có mưa hoà trong nắng:
Lặng lẽ mưa tình
mang đến hỷ
Êm đềm nắng nghĩa
gởi về hân
Đây không phải một
bình minh chợt mưa chợt nắng. Đây là một bình minh mà mưa và nắng như kết nghĩa
tình yêu, hiệp cùng nhau đem niềm vui (hỷ) và sự hân hoan ( hân) đến trần. Một
buổi sáng mưa rơi dưới ánh nắng mặt trời phải là một buổi sáng đẹp biết bao vì
mưa làm cho bầu trời diệu mát và nắng thì khúc xạ trong mưa hoá ra muôn màu
tươi đẹp. Vế đối nầy đã biến hoá không gian thành bức tranh tuyệt mỹ và sự thần
kỳ của nó là trút và chiếu xuống trần
gian nguồn vui của trời. Đó cũng là phong cách mà người tu hành lặng lẽ, âm thầm
hành đạo giữa thế gian, đem “hỷ” và “hân” về cho nhân thế.
Vế kết của bài thơ
thật là độc đáo:
Trời xanh lộc biếc
thầm giao cảm
Hãy trả lời đi chớ
ngại ngần…!
Sự giao cảm giữa
trời xanh và lộc biếc là sự quang hợp giữa ánh nắng và cây. Sự quang hợp cung
cấp hầu hết các năng lượng cần thiết cho sự sống trên trái đất. Trong thơ sự
quang hợp nầy không chỉ là hiện hiện tượng vật lý mà là một hiện tượng tinh
thần vì nó “thầm giao cảm” cùng nhau, nghĩa là bầu trời và cây lá trong giờ
phút nầy mang bản sắc của con người. Ý thơ diễn tả sự hoà hợp sâu xa của vạn
vật trong buổi bình minh nầy . Và trong giờ phút thiêng liêng đó trời đất giải
đáp được mọi bí ẩn, để con người khám phá và trả lời ngay được những tư duy còn
thắc mắc trong lòng: “Hãy trả lời đi chớ ngại ngần…! “Câu thơ nầy độc đáo như
một câu chú truyền tâm pháp khai ngộ các bậc chân tu. Nó cũng có thể khai sáng
tâm trí của người trần mắt thịt. Ai trong chúng ta không băn khoăn với biết bao
câu hỏi giữa cuộc đời. Câu thơ cho ta thấy hãy để tâm hồn lắng đọng như buổi
bình minh nầy thì đáp án sẽ có. Câu thơ cũng thúc dục chúng ta “hãy trả lời đi”
nghĩa là phải hạ quyết tâm, không ngại ngần tiếp nhận chân lý “ưu vắng’ trong
linh hồn, “hân, hỷ” trong cuộc sống và “giao cảm” với vạn vật như bình minh đến
với đất trời mùa xuân vậy.
Nhiều tác giả thâm Nho thường kẹt cứng trong
Hán tự khi làm thơ, khiến cho sự cao siêu trong suy tư làm nhiều người khó hiểu.
Nhiều bài thơ thoát ra được sự bí hiểm của từ nhưng lại vấp phải sự hời hợt vì
không có chữ để diễn tả hết ý của thơ. “Bình Minh” của Thích Tín Thuận không
thế, chữ Hán vẫn dùng nhưng câu thơ rất
bình dị, tư tưởng thâm thuý khiến trình độ người đọc ở mức độ nào cũng thấy thơ
hay. Tôi là một bạn đọc không biết chữ Hán, không am tường Phật pháp, chỉ cảm
kích bài thơ theo hiểu biết nông cạn của mình mà lòng thôi thúc phải viết cảm
nhận ngay nên tôi cứ viết. Xin cúi đầu tạ lỗi với thầy Thích Tín Thuận, với quý
bạn đọc về mọi thiếu sót, sai lầm trong bài viết nầy ./.
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét