(Hà Nội cổ xưa - Ảnh: Internet) |
THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ
Tạo
hóa gây chi cuộc hý trường
Đến
nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn
thu thảo
Nền cũ
lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn
trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước
còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương
cũ soi kim cổ
Cảnh đấy, người đây luống
đoạn trường.
*.
(Bà Huyện Thanh Quan)
*.*.*
Theo Bách Khoa Toàn Thư
Wikipedia, “Năm 1802 Nguyễn
Ánh lên ngôi, lấy hiệu Gia Long và chọn Huế làm kinh đô. Thăng Long mất địa
vị đầu não của đất
nước về chính trị và văn hóa. Bài thơ được viết
sau thời kỳ này. Bài thơ được viết
theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Tác giả
tả cảnh mà ngụ tình. Cảnh thì tang thương, tình thì hoài cổ.”
Giáo sư
Phạm Thế Ngũ cho rằng “Bài thơ nói lên nỗi đoạn trường
của tác giả trước cảnh
hoang tàn của cố đô đất Bắc.”
Về giá
trị nghệ thuật, ông nhận
định: “Nhìn chung, thơ Bà Huyện Thanh Quan đều
có vô số những cái hay: chữ dùng khéo, chọn lọc, thích đáng, đối
rất chỉnh, rất thần
tình, ý hàm súc, lời trau
chuốt, gọn, đẹp. Riêng bài thơ
Thăng Long Thành Hoài Cổ
cổ kính mà thanh thoát nhẹ nhàng, ước lệ mà có hồn,
có cảm. Sự phối hợp
của ý tưởng với thanh âm đã gây nên một thi điệu
tự nhiên, uyển chuyển, hấp
dẫn, khác xa những dòng chữ chắp nối
công phu mà vẫn lủng củng, không hồn
của đa số các bài thơ tiền Nguyễn.”
(Wikipedia Tiếng Việt)
Chỗ độc đáo của Thăng Long Thành Hoài Cổ, theo tôi, là hàm lượng cảm
xúc. Bất chấp bị gò bó, trói buộc
bởi niêm luật vần đối
của thể thơ, Bà Huyện
Thanh Quan vẫn cố gắng biểu
lộ được cảm xúc dạt
dào của mình. Hình như từ trong mỗi
chữ, mỗi câu đều ứa
ra một dung dịch chứa đầy
sự thương yêu, nỗi buồn đau, nuối
tiếc của bà đối
với cố đô Thăng Long.
So sánh với
thơ Đường luật của
những nhà thơ cùng thời, bài Thăng Long Thành Hoài Cổ là một trong vài bài có giá trị nghệ
thuật cao nhất, được ngợi
ca nhiều nhất. Tuy nhiên, với con mắt nhìn của
thơ ca hiện đại thì chữ
dùng của bài thơ còn đầy vẻ
khuôn sáo, ước lệ. Đặc biệt,
chui vào cái rọ của thể thơ
Đường luật tác giả đã phải xoay trở,
luồn lách, tả xung, hữu đột với
niêm luật vần đối để
bày tỏ tâm sự của mình. Tuy thành công, nhưng dấu
hiệu của sự gò bó đã thể
hiện rõ nét trong dòng chảy của thơ.
Tôi không ác cảm
với thể thơ thất
ngôn bát cú Đường luật. Thuở mới
tập làm thơ, những bài thơ
tôi viết đầu tiên là thơ Đường luật.
Chính những bài thơ đầy hào khí như
Cảm Hoài của Đặng Dung, tâm tình hoài cổ sâu lắng
như Thăng Long Thành Hoài
Cổ, Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, hoặc lãng mạn kiểu đồng
quê như Thu Điếu, Thu Ẩm, của
Nguyễn Khuyến đã lôi cuốn tôi bước qua cánh cổng
Thơ Ca.
Tác giả Phạm Đức Nhì |
Nhưng
thời gian cứ lặng lẽ
trôi. Giờ đây Nàng Thơ đã có bộ mặt mới.
Các thi sĩ đã cố công tìm
tòi, thể nghiệm nhiều thể
thơ “mới”, sao cho vừa giữ được
vị ngọt của thơ
ca, vừa cởi trói cho người làm thơ khỏi những
luật lệ quá khắt khe, gò bó. Đâu là thể thơ
tối ưu của thi ca đương
đại? Công cuộc chọn lựa,
tranh cãi còn chưa ngã
ngũ. Nhưng chắc chắn đã có rất
nhiều thể thơ, ở
mức độ khác nhau, cho phép người làm thơ thời nay được
thoải mái hơn, tự do hơn,
thể hiện tứ thơ
của mình, và nhờ đó, có thể dễ dàng đưa
cảm xúc của mình, thả tâm hồn của
mình vào thơ.
Thơ Đường luật bỗng
trở thành cô gái lỡ thì, thân hình khô cứng lại kênh kiệu,
khó tính, bị những chàng trai trẻ ngoảnh mặt
làm ngơ. Họ nhìn về hướng
khác để tìm những cô gái đang xuân, vóc dáng,
trang phục hợp thời hơn,
hấp dẫn hơn, tính tình cởi
mở hơn, gần gũi hơn
với cái “gu” thẩm mỹ của
thời đại mới.
Một người bạn thích thơ
truyền thống cắc cớ
hỏi tôi: “Nếu ở thời
điểm này (2013) mà vẫn cứ thích làm thơ
Đường luật thì có sao không?” Câu trả lời là: “Chẳng
sao cả. Quả địa cầu
sẽ chẳng vì thế mà nổ tung. Dĩ nhiên, làng thơ vẫn
dang rộng vòng tay đón
chào. Trên trang thơ của mình, trong cõi thơ của mình, thi sĩ là Hoàng Đế, có toàn quyền
chọn lựa, quyết định.
Từ tứ thơ, thể
thơ, cách gieo vần, câu dài, câu ngắn, bài thơ dài hay ngắn, sử dụng
các biện pháp tu từ…tuốt tuột.
Không ai có thể chõ miệng vào bắt anh (chị) phải làm thơ
kiểu này, kiểu nọ.”
Có một
nhà thơ đã nói: “Làm thơ tự do giống
như đánh tennis mà không
có lưới.”
Lời
phát biểu ấy đúng hay sai đến mức độ
nào, xin để những người làm thơ
tự do lên tiếng. Riêng tôi, nhân có hình ảnh của môn thể
thao tennis, nghĩ đến thơ Đường luật,
xin đưa ra một so sánh khác:
“ Làm thơ Đường luật
ở thời đại này giống
như đánh tennis với đối thủ
(là những nhà thơ khác) mà khi banh về đến phần
sân của mình thì lưới đột nhiên được
nâng cao hơn, đường biên sân phía bên sân đối thủ ngắn
và hẹp hơn, mình chỉ được di chuyển
không quá 2 bước, lần trước đánh banh bằng
tay phải thì lần sau phải đánh banh bằng tay trái…” nghĩa là bị gò bó đủ mọi bề;
đánh banh hợp lệ vào đúng phần sân phía bên kia đã là khó
chứ đừng nói chi đến thể hiện
sự nhanh nhẹn, nhạy bén nghệ
thuật. Tranh tài kiểu này thi sĩ làm thơ Đường luật
sẽ ở vào thế hạ
phong, phần thua nhiều hơn phần
thắng. Tạo được bài thơ
nên vóc, nên hình đã mệt
đứ đừ rồi, còn hơi,
còn sức đâu mà để ý đến hồn
thơ hay cảm xúc.
Làm thơ,
thưởng thức thơ, nói chung, là một
thú vui tao nhã. Làm thơ
Đường luật, xướng họa
thơ Đường luật, đọc
và thưởng thức thơ Đường
luật nói riêng, là phương cách giải trí của các tao nhân, mặc
khách. Ngoài nhu cầu đối âm, người làm thơ Đường luật
phải biết cả đối
ý (trong 2 câu thực và 2
câu luận). Do đó việc sử dụng
ngôn ngữ trong thơ Đường luật,
theo tôi, được để ý kỹ hơn
(đôi khi phải “chẻ sợi tóc làm tư”).
Kết quả là người làm thơ
Đường luật thường có khả
năng dùng chữ chính xác hơn, đắt hơn,
tinh tế hơn những người
chuộng các thể thơ khác.
Đối với những vị
chuộng thơ Đường luật,
đã “quen” với thơ Đường luật,
thích thù tạc xướng họa thơ
Đường luật, thì chẳng việc gì mà phải
từ bỏ cái thú vui tao nhã ấy. Xin cứ tiếp tục
làm thơ để góp cho đời những bông hoa tươi
đẹp. Xin cứ tiếp tục
đọc thơ Đường luật
để thưởng thức những
cảm nghĩ, những rung động nhẹ nhàng, thanh thoát của người
xưa.
Những
quý vị làm thơ Đường luật,
theo tôi, như võ sĩ lên võ đài, rất ương
ngạnh và oai hùng, chấp nhận chịu
trói cả 2 tay, 2 chân để đấu với
đối thủ. Khi bị bươu
đầu sứt trán, hoặc nằm thẳng
cẳng đo ván thì (dù không
nói ra) thường cho là tại bị gò bó, trói buộc.
Những quý vị đó quên rằng chính họ đã tình nguyện lên võ đài với tư thế
ấy.
Rất
mong nhận được phê bình, chỉ điểm, bổ
khuyết của những người
yêu thơ.
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
……………….....
© Tác giả
giữ bản quyền.
- Nguồn: dangxuanxuyen.blogspot.com.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét